"Kiến thức của bạn - Niềm vui chung của chúng tôi - Nụ cười của bệnh nhân"

Hiển thị các bài đăng có nhãn Phẫu thuật cột sống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phẫu thuật cột sống. Hiển thị tất cả bài đăng

15 thg 7, 2013

Thoát vị đĩa đệm : Cơ chế bệnh sinh,phân loại,thái độ xử trí

Giải phẫu và chức năng của đĩa đệm
Đĩa đệm nằm trong khoang gian đốt bao gồm nhân đĩa đệm nằm giữa, mâm sụn và vòng sợi bao bọc ở ngoài, được giữ cố định bởi dây chằng dọc trước và dọc sau.

Do dáng đi thẳng  nên đĩa đệm phải chịu áp lực của tất cả phần trên cơ thể dồn xuống một diện tích nhỏ vài cm2. Sự thay đổi tư thế của nửa trên cơ thể ra khỏi trục sinh lý làm cho áp lực trọng tải tăng lên gấp nhiều lần, nếu áp lực trọng tải quá cao tác động thường xuyên kéo dài sẽ gây thoái hóa. Bên cạnh đó đĩa đệm còn đảm bảo chức năng cho cột sống trong điều kiện tĩnh, nó có chức năng như một “giảm xóc” làm giảm nhẹ chấn động theo trục dọc cột sống do các nhân nhầy có khả năng chuyển tiếp các lực trải đều, cân đối tới mâm sụn và vòng sợi.

Trong điều kiện bình thường, không những đĩa đệm đáp ứng được những yêu cầu của vận động cột sống, chịu lực nén ép cực đại mà còn tránh không bị tổn thương sớm trước khi thân đốt sống bị đe dọa gãy hoặc bị vỡ. Chính nó đã được điều vận một cách linh hoạt hai đặc tính vừa thích nghi, vừa đề kháng để tạo nên sức chống đỡ cho thân đốt sống trước những tác động của chấn thương.
Sinh bệnh học thoát vị đĩa đệm
Chức năng của đĩa đệm CSTLC là phải thích nghi với họat động cơ học lớn, chịu áp lực cao thường xuyên, trong khi đĩa đệm lại là mô được nuôi dưỡng kém do được cấp máu chủ yếu bằng thẩm thấu. Chính vì vậy các đĩa đệm thắt lưng sớm bị loạn dưỡng và thoái hóa tổ chức, thường bắt đầu từ tuổi 20.
Đĩa đệm thoái hóa đã hình thành một tình trạng sẵn sàng bị bệnh. Sau một tác động đột ngột của các động tác sai tư thế (hình vẽ), một chấn thương bất kỳ đã có thể gây đứt rách vòng sợi đĩa đệm, nhân nhầy chuyển dịch ra khỏi ranh giới giải phẫu của nó, hình thành thoát vị đĩa đệm.

Tư thế bình thường và khi bê vật nặng sai tư  thế
Những điều kiện làm chuyển dịch tổ chức đĩa đệm gây nên lồi hoặc thoát vị đĩa đệm là:
Áp lực trọng tải cao.
Áp lực căng phồng của tổ chức đĩa đệm cao.
Sự lỏng lẻo từng phần với sự tan rã của tổ chức đĩa đệm.
Lực đẩy và lực cắt xén do các vận động cột sống, đĩa đệm quá mức (xoắn vặn, dồn dập, nén ép) (hình vẽ).
Hiện tượng thoái hoá cột sống trong đó có thoái hoá đĩa đệm và thoái hoá dây chằng.

Di chuyển của nhân nhầy khi cột sống vận động ưỡn và cúi
Hiện tượng thoái hóa đĩa đệm bao gồm: sự thay đổi tính chất của vòng sụn xơ, sự mất nước của nhân đĩa đệm dẫn tới mất tính đàn hồi và khả năng hấp thụ lực sang chấn của đĩa đệm. Đồng thời, sự thay đổi về cấu trúc và tính chất sinh học sẽ làm vòng sụn của đĩa đệm mỏng đi và dễ rách, nhân đĩa bị xơ hóa, ranh giới giữa nhân đĩa và vòng sụn mất dần. Dưới tác dụng của trọng lực cơ thể hoặc sang chấn, nhân đĩa sẽ xuyên qua chỗ rách của vòng sụn gây thoát vị chèn ép vào ống tủy, rễ thần kinh
Tóm lại, về bệnh căn bệnh sinh của thoát vị đĩa đệm có thể nói khái quát rằng: thoái hóa đĩa đệm là nguyên nhân cơ bản bên trong, tác động cơ học là nguyên nhân khởi phát bên ngoài và sự phối hợp của hai yếu tố đó là nguồn gốc phát sinh thoát vị đĩa đệm.
Hệ thống dây chằng bao quanh đĩa đệm rất giầu nhánh thần kinh, khi có đĩa đệm chèn vào sẽ gây đau tại chỗ và co thắt cơ thắt lưng, đó là nguyên nhân gây đau thắt lưng. Hiện tượng một mảnh nhân đĩa đệm chui qua phần sau ống sụn, đôi khi chui qua cả chỗ rách của dây chằng dọc sau sẽ chèn ép vào rễ thần kinh gây xung đột đĩa đệm-rễ thần kinh, là nguyên nhân gây đau thần kinh tọa.
Phân loại mức độ thoát vị và thái độ xử trí
Thoái vị thường ở vị trí ngang với khoang gian đốt, phổ biến ở hai đốt sống cuối của thắt lưng. Thoát vị thường có 3 dạng chính: lồi đĩa đệm đơn thuần, thoát vị đĩa đệm chưa làm rách dây chằng và thoát vị đĩa đệm dưới dây chằng chui vào ống sống qua chỗ rách của dây chằng. Ngoài ra có thể chia ra thoát vị đĩa đệm trung tâm, lệch bên, bên xa hoặc thoát vị trong lỗ tiếp hợp. Sự đa dạng của hình thái thoát vị và vị trí giải thích sự đa dạng về mức độ đau và các hình thái khác nhau trên lâm sàng của người bệnh.

Lồi đĩa đệm đơn thuần: chủ yếu là điều trị nội khoa. Bất động lưng tại nền cứng trong thời kỳ cấp tính 5-7 ngày. Vật lý trị liệu: xoa bóp, bấm huyệt, điện châm, laser, sóng cao tần (radio). Kéo giãn cột sống: xà đơn, bơi lội...Và sử dụng thuốc giảm đau chống viêm và giãn cơ
Thoát vị đĩa đệm chưa rách dây chằng: áp dụng điều trị nội khoa tích cực như trên trong thời gian 3 tháng. Nếu không khỏi thì có thể áp dụng các phương pháp như: hóa tiêu nhân nhầy, tiêu hủy nhân nhầy qua da... Cuối cùng là mổ: nội soi, lấy đĩa đệm tự động qua da, mổ ít xâm lấn và mổ mở.
Thoát vị đĩa đệm có mảnh rời trong ống tủy:
Bắt buộc phải mổ để lấy mảnh rời trong ống tủy và kiểm soát đĩa đệm bệnh lý bị thoát vị.
Ngoài ra, còn có một sống thể đặc biệt cần can thiệp mổ cấp cứu
TVĐĐ gây đau quá mức: bệnh nhân không thể chịu đựng được hoặc nằm im không nhúc nhích, đau mất ăn mất ngủ, không dám ho, dùng các loại thuốc giảm đau đều không có tác dụng.
TVĐĐ gây liệt: TVĐĐ chèn ép rễ thần kinh (thường ở rễ L5 và S1) dẫn đến giảm trương lực cơ gây yếu hoặc liệt các nhóm cơ do rễ thần kinh bị chèn ép chi phối, liệt chỉ phục hồi được khi phát hiện sớm và mổ giải ép kịp thời.
TVĐĐ gây hội chứng đuôi ngựa: thường do thoát vị lớn bị đứt rời thành khối hay bị vỡ ra thành nhiều mảnh rơi vào trong ống sống gây liệt mềm đột ngột hai chi dưới kèm theo rối loạn cơ tròn và rối loạn cảm giác tầng sinh môn hình yên ngựa.
Thể không điển hình: TVĐĐ trong và ngoài lỗ tiếp hợp chiếm khoảng 8-10%. Hội chứng cột sống thường rất nhẹ hoặc không rõ nhưng hội chứng chèn ép rễ thần kinh thường rất rõ. Đau kèm theo liệt và rối loạn cảm giác thường xuất hiện sớm.
ThS.Bs Nguyễn Vũ

Tạo hình đốt sống qua da

Tạo hình đốt sống qua da hay còn gọi là đổ xi măng đốt sống là kĩ thuật bơm vào thân đốt sống bị xẹp hỗn dịch xi măng sinh học (Methylmethacrylate) qua ống thông (Troca) được chọc qua da dưới hướng dẫn của Xquang truyền hình mà không cần phải phẫu thuật. Kỹ thuật này được tiến hành lần đầu tiên tại pháp do giáo sư H. Deramond vào năm 1984. Hiện hay nó đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới.

Với mục đích:
Tác dụng giảm đau.
Tác dụng làm bền vững thân đốt sống.
Cầm máu tiền phẫu.
Những chỉ định thường được áp dụng
Xẹp đốt sống do loãng xương gây đau hoặc lún xẹp do chấn thương
U máu thân đốt sống thể tiến triển.
Các tổn thương u gây tiêu hủy thân đốt sống (di căn cột sống thể tiêu xương, đa u tủy, u hạt tế bào ái toan).
Có hai kỹ thuật chính được thực hiện:
Kỹ thuật tạo hình đốt sống qua da bằng bơm xi măng sinhhọc (Vertebroplasty): phẫu thuật viên sẽ sử dụng một kim chuyên dụng chọc vào thân đốt sống để bơm xi măng. Xi măng sinh học giúp bền vững thân đốt sống, từ đó làm giảm đau cho bệnh nhân. Tuy nhiên sau khi bơm,những đốt sống bị xẹp vẫn chưa trở lại hình dáng ban đầu do áp lực bơmchưa đủ làm nở đốt sống. Mặt khác, đôi khi do đốt sống bị xẹp nặng,dưới áp lực bơm, xi măng có thể tràn ra ngoài đốt sống.

Kỹ thuật tạo hình đốt sống bằng bơm xi măng sinh học có bóng (Kyphoplasty): là kỹthuật hiện đại nhất đang được áp dụng phổ biến ở các nước tiên tiếntrên thế giới. Bệnh nhân sau khi gây tê tại chỗ, phẫu thuật viên sẽ dùng một kim chuyên dụng có bóng ở đầu chọc vào thân đốt sống dưới hướng dẫn của màn huỳnh quang tăng sáng. Sau đó, quả bóng sẽ được bơm căng lên để làm nở đốt sống, trả lại hình dáng ban đầu. Sau khi rút bóng ra, xi măng sẽ được bơm vào khoảng trống vừa tạo trong đốt sống,mà không chịu áp lực. Do đó xi măng ít có khả năng tràn ra ngoài. Đốtsống sau khi trở lại hình dáng ban đầu sẽ tránh nguy cơ gù, trượt cộtsống cho bệnh nhân về sau. Như vậy, kỹ thuật này đã khắc phục tất cả các nhược điểm của Vertebroplasty, mà vẫn làm bền vững thân đốt sống, giảm đau cho bệnh nhân.
Biến chứng thường gặp:
ít gặp, tỉ lệ biến chứng nói chung dao động trong khoảng 1-3% tùy theo nguyên nhân xẹp đốt sống.
Các biến chứng nhẹ, không cần phải sử lí tiếp theo.
Tràn xi măng vào đĩa đệm.
Tràn xi măng vào tĩnh mạch quanh đốt sống.
Tràn xi măng vào tổ chức phần mềm quanh đốt sống.
Các biến chứng nặng hơn có thể cần phải phẫu thuật bao gồm.
Tràn xi măng vào ống sống chèn ép tủy.
Nhồi máu phổi mức độ nặng.
Ưu nhược điểm
Ưu điểm.
  • Hiệu quả điều trị cao và bền vững.
  • Là phương pháp can thiệp tối thiểu (chỉ cần rạch 1 hoặc 2 lỗ có đường kính 5mm trên da.
  • Thời gian nằm viện ngắn (bệnh nhân chỉ cần theo dõi trong viện khoảng 1 ngày).
  • Thời gian hồi phục nhanh chóng (bệnh nhân có thể ngồi dậy và đi lai 4 giờ sau khi được THĐS).
Nhược điểm.
  • Kĩ thuật phải được tiến hành ở các trung tâm có máy Xquang tăng sáng truyền hình.
  • Chi phí khá cao.

Phẩu thuật mât vững cột sống C1 C2 : đỉnh cao của phẩu thuật cột sống cổ

Kỹ thuật vít qua khớp C1C2 đường cổ sau
Chỉ định:
-         Chấn thương: Trật C1C2 mới, dễ nắn; gãy mỏm nha mà khối khớp C1C2 không tổn thương
-         Thoái hóa: Trật C1- C2 do teo mỏm nha, thoái hóa dây chằng
Kỹ thuật:
- Vô cảm: Tất cả bệnh nhân đều được gây mê toàn thân với ống nội khí quản đặt qua mũi, hoặc đặt ống nội khí quản qua nội soi.
- Tư thế bệnh nhân: Tư thế sấp: đầu được cố định trên một gá đỡ. Cần có C-Arm hoặc Navigation  trong mổ


-         Đường rạch da từ ngang lỗ chẩm đến gai sau C7. Bộc lộ diện khớp C2 C3 và cung sau C1. Lưu ý không bộc lộ quá 2cm cách đường giữa, đề phòng tổn thương động mạch đốt sống.
Xác định vị trí đặt vít qua cuống C2: vị trí trên diện khớp C2,C3 2-3mm, trong so với bờ ngoài cột sống 2mm,
Hướng của vít: hướng từ vị trí đặt vít tới cung trước C1 theo chiều trước sau và tạo góc so với mặt phẳng cắt đứng dọc qua đường giữa một góc 0-15 độ.
Khi tiến hành khoan mồi và vít phải liên tục kiểm tra trên C-Arm tránh lệch hướng vít đề phòng tổn thương động mạch đốt sống, hoặc vào trong lòng ống tuỷ. Sau khi đặt xong vít tiến hành ghép xương vào diện C1 C2 tạo quá trình liền xương sau này, tránh khớp giả, gãy vít.
- Các tai biến: Khi phẫu tích quá rộng sang hai bên ở cung sau C1 và C2 có thể gây tổn thương động mạch đốt sống, thần kinh dưới chẩm, dây chẩm Arnold.
Ưu điểm : phương pháp hiệu quả, tỉ lệ liền xương cao (95- 98%)[26,31] kinh phí thấp và khá an toàn nhưng đòi hỏi độ chính xác và cần một số thiết bị hiện đại (C- arms trong mổ). Phục hồi giải phẫu chức năng so với các phương pháp phẫu thuật khác làm cứng khớp cổ chẩm: chức năng khớp chẩm C1 vẫn còn cúi ngửa khoảng 13 độ, nghiêng hai bên khoảng 8 độ.
Hạn chế: Một số trường hợp trật C1- C2 di lệch nhiều, không năn chỉnh được thì không thực hện được kỹ thuật này, Kỹ thuật đòi hỏi độ chính xác  cao.
Kỹ thuật mổ cố định khối bên C1 và chân cung C2 (Harms technique)
Chỉ định: gãy trật C1C2 nặng do gãy mỏm nha, đứt dây chằng ngang hoặc tiêu mỏm nha bệnh lý. Thực hiện kỹ thuật vít qua khớp C1C2 thất bại (tổn thương động mạch đốt sống, tổn thương khớp C1C2).
Kỹthuật:
Gây mê NKQ, bn nằm sấp, đầu được cố định trên khung giúp nắn chỉnh trước mổ và cố định chắc. Kiểm tra vị trí C1 C2 và sự nắn chỉnh trước mổ bằng xquang trong mổ.
Rạch da từ mai chẩm đến C3, bộc lộ rõ khối bên C1 và khối mấu khớp C2. Cần bộ lộ rõ khối bên C1 ở dưới cung sau và trên cung sau, biết bờ trong và bờ ngoài khối bên, lưu ý đẩy động mạch đốt sống lên trên tránh làm tổn thương. Mốc vào nằm trên cung sau C1 giữa hai bờ trong và ngoài khối bên. Dùng mũi khoan mài kim cương 2-3mm với hướng mũi khoan vào điểm giữa cung trước củ C1 với góc nghiêng 10 độ tới vỏ sau thân C1. Sau đó bộc lộ bờ trong thấy chân cung C2. Điểm vào C2 là 3mm dưới khe khớp và 3mm ngoài chân cung C2, hướng mũi khoan lên trên 10-15 độ và nghiêng vào trong khoảng 30 độ. Sau đó đặt vít đa trục và đặt hai thanh nối dọc và cố định. Bóc kỹ vỏ xương cung sau C1, đặt xương ghép lên cung sau C1 và bản sống C2.

Ưu điểm: Khả năng nắn chỉnh và hàn xương cao
Hạn chế: Vật liệu đắt tiền, đòi hỏi PTV có kinh nghiệm
Nẹp vít cổ chẩm (Occipito-Cervival fusion)
Chỉ định: Mất vững C1C2 nặng mà không nắn chỉnh được trước mổ (kéo liên tục, halo); gãy Jefferson không vững; bất thường C1(không có C1, tiêu C1…), thất bại khi áp dụng tất cả các phương pháp cố định C1C2 khác.
Kỹ thuật:
Rạch da từ mai chẩn đến C4, bộc lộ toàn bộ mai chẩm và diện khớp bên của C2 và C3. Chọn điểm vào C2 là 3mm dưới khe khớp và 3mm ngoài chân cung C2, hướng mũi khoan lên trên 10-15 độ và nghiêng vào trong khoảng 30 độ. Đặt vít vào cuống C3 theo kỹ thuật đặt vít chân cung hình phễu. Sau khi đặt vít đa trục vào C2 và C3, đặt thanh nẹp cổ chẩm hai bên và cố định vào mai chẩm từ 4 đến 6 vít. Sau đó tiến hành cắt cung sau C1 giải phóng chèn ép tủy.

Uu điểm: Khả năng làm vững tốt, kỹ thuật dễ thực hiện
Hạn chế: Đắt tiền, ảnh hưởng nhiều đến chức năng khớp C1- C2
Kỹ thuật vít trực tiếp mỏm nha đường cổ trước.
Chỉ định: gãy nền mỏm nha không di lệch
Kỹ thuật
Bệnh nhân nằm ngửa, cổ ưỡn. Rạch da đường cổ trước dọc theo bờ trong cơ ức đòn chũm tới sát góc hàm. Bộc lộ tới dây chằng dọc trước để bộc lộ trực tiếp bờ dưới của thân C2. Gặm bỏ một phần chính giữa bờ dưới thân C2 sát đĩa đêm C2C3. Dùng mũi khoan nhỏ hoặc đinh Kischner khoan từ điểm vừa gặm với hướng đi lên trên và song song với thân C2, nên kiểm tra với máy chụp x quang trong mổ hai bình diện.


Ưu điểm: Bảo tồn chức năng khớp C1- C2, vật liệu rẻ tiền
Hạn chế: chỉ định hạn chế và đòi hỏi kỹ thuật cao
ThS.Bs Nguyễn Vũ

Mổ nội soi thoát vị đĩa đệm các bước tiến hành

Các bước tiến hành mổ thoát vị đĩa đệm bằng phương pháp nội soi qua đường lỗ liên hợp
1. Lên kế hoạch trước mổ
2. Đặt bệnh nhân tư thế nghiêng và chụp x quang kiểm tra trong mổ để xác định
3. Gắn và đẩy ống dẫn đường Tomshidi dần dần vào vị trí và đặt đúng vị trí cần thiết
3.1 Lưu ý với L4L5: phần đầu xương chậu nhô lên và che khuất trong hình chụp
3.2 Lưu ý với L5S1
4. Luồn kim Kwire qua ống dẫn đường
5. Dùng mũi khoan rỗng nòng 4mm qua kim kwire để tạo đường (cần giữ cố định kim), sau đó dùng các mũi khoan to hơn 6mm hoặc 7-8mm nếu cần
6. Đưa ống nong qua kim Kwire và ống canuy
7. Kiểm tra trên C.arm và kiểm tra đường vào bằng ống nội soi
8. Đưa dụng cụ qua ống canuyn phẫu thuật lấy thoát vị và giải ép thần kinh
ThS.Bs Nguyễn Vũ

Vô cảm và giảm đau cho bệnh nhân mổ vùng cột sống thắt lưng

Đối với những phẫu thuật cột sống cao (đốt sống cổ, đốt sống ngực) thì gây mê nội khí quản vẫn là sự lựa chọn số một và duy nhất. Ở nhiều cơ sở ngoại khoa ngay cả những phẫu thuật cột sống thấp (vùng thắt lưng) phần lớn cũng được tiến hành dưới gây mê toàn thân. Tuy nhiên khi gây mê cho bệnh nhân ở tư thế nằm sấp việc bảo đảm an toàn tối ưu cho bệnh nhân vẫn là thách thức đối với các bác sỹ gây mê hồi sức. Bệnh nhân phải đối mặt với nhiều nguy cơ mà ngay cả bác sỹ gây mê kinh nghiệm nhất cũng khó có thể loại trừ hoàn toàn. Ngoài các biến chứng liên quan đến phẫu thuật như mất máu do tổn thương các mạch máu lớn (động mạch chủ ngực, động mạch chủ bụng…) rất khó hồi sức khi bệnh nhân đang trong tư thế nằm sấp. Những trường hợp mất máu nặng dọa ngừng tim hay ngừng tim thực sự thì việc đấm mạnh vào vùng trước xương ức hay ép tim ngoài lồng ngực là không thể thực hiện. Đây cũng là vấn đề nghiêm trọng ở tất cả các loại phẫu thuật đòi hỏi tư thế mổ không sinh lý này. Nhưng khó khăn hơn cả là việc phát hiện sớm và xử trí những biến chứng thần kinh do tỳ đè, nguy cơ tiêu cơ vân, suy thận cấp do tư thế mổ nằm sấp nhất là khi thời gian phẫu thuật kéo dài và bệnh nhân không tỉnh.
Thêm nữa vấn đề đau sau phẫu thuật cột sống cũng được quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây. Bản thân bệnh nhân bị bệnh lý cột sống đã chịu chứng đau mạn tính trước mổ, đã được điều trị bằng rất nhiều loại thuốc giảm đau, bệnh nhân chỉ chịu đi mổ khi tất cả các biện pháp điều trị đông tây y tỏ ra vô tác dụng. Điều này là một thách thức với các nhà gây mê hồi sức trong việc kiểm soát đau sau mổ bằng các thuốc giảm đau chống viêm thông thường hoặc ngay cả thuốc giảm đau mạnh (dòng họ Morphin). Từ lâu gây tê vùng đã được chứng minh về tính hiệu quả trong điều trị đau cột sống cấp tính cũng như mạn tính. Mặt khác rễ thần kinh sau khi được giải phóng chèn ép sẽ tiếp tục sưng nề và thậm chí còn đau hơn cho đến tận ngày thứ ba sau mổ. Điều này có nghĩa là ngay cả khi đã được giải phóng chèn ép thì bệnh nhân vẫn còn đau do phù nề thần kinh. Nói khác đi một kỹ thuật giảm đau đúng áp dụng cho bệnh nhân sau mổ nếu phát huy tính hiệu quả là do bản thân kỹ thuật đó chứ không hẳn do kết qủa của phẫu thuật (điều này luôn đúng trong ít nhất ba ngày đầu sau mổ).
Việc vô cảm cho bệnh nhân mổ cột sống thắt lưng (cột sống đoạn thấp) dưới gây tê vùng đã được nhiều tác giả áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ 20, kỹ thuật này đã hạn chế được nhiều tác dụng không mong muốn của gây mê toàn thân. Khi bệnh nhân tỉnh họ có thể chủ động tư thế đầu, vai, bụng, ngực trong lúc đang nằm sấp, điều này đương nhiên sẽ hạn chế được các biến chứng do tỳ đè đặc biệt là biến chứng mắt (theo một thông báo năm 2000 có ít nhất 2% bệnh nhân có biến chứng mắt từ nhẹ đến nặng do tỳ đè khi mổ ở tư thế nằm sấp). Thêm nữa gây tê vùng cũng kiểm soát đau tối ưu sau mổ như chúng tôi đã trình bày ở trên.
Tại bệnh viện đại học Y Hà Nội chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật bệnh lý vùng cột sống thắt lưng có hoặc không làm nẹp vis cho hơn 30 bệnh nhân dưới gây tê vùng (kết hợp giữa gây tê tủy sống và gây tê ngoài màng cứng), đặc biệt có thể can thiệp nẹp vít đến vùng L1L2 cột sống thắt lưng và áp dụng an toàn ở những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Tê tủy sống phát huy tác dụng nhanh và bảo đảm giảm đau hiệu quả trong mổ, Cathete vô khuẩn được luồn vào khoang ngoài màng cứng và thuốc tê được truyền liên tục cho bệnh nhân qua catheter này đã kiểm soát được hoàn toàn đau sau mổ (lưu catheter đến ngày thứ năm).

Kết quả cho thấy cả bệnh nhân và phẫu thuật viên đều hài lòng. Điều này được giải thích là tê tủy sống đúng vị trí không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của ca mổ, mức độ giảm đau cũng như giãn cơ tối ưu cho phép phẫu thuật viên tiến hành phẫu thuật dễ dàng. Số liệu sơ bộ cho thấy không có bệnh nhân nào bị biến chứng liên quan đến tư thế nằm xấp (biến chứng thần kinh, biến chứng do tỳ đè). Và hơn cả là hiệu quả giảm đau sau mổ bằng cathete ngoài màng cứng rất tốt. Bệnh nhân hầu như không đau, không có phiền nạn lớn, nhiều bệnh nhân kể lại họ đã trải qua một giấc ngủ ngon nhất sau nhiều tháng do không bị các cơn đau hành hạ.
Gây tê vùng trong phẫu thuật cột sống mặc dù có nhiều ưu điểm như đã kể trên nhưng cũng có hạn chế do không thể áp dụng cho tất cả các bệnh nhân phẫu thuật cột sống đặc biệt là các phẫu thuật ở vị trí cao vì gây tê tủy sống có những chống chỉ định đặc thù và cũng có những tai biến nguy hiểm thậm chí chết người. Chính vì vậy chúng tôi không khuyến cáo áp dụng rộng rãi phương pháp vô cảm này cho bệnh nhân phẫu thuật cột sống. Kỹ thuật này chỉ được phép tiến hành tại các cơ sở y tế có đầy đủ các phương tiện gây mê hồi sức và phải có đội ngũ nhân viên y tế tinh nhuệ. Tuy nhiên việc đặt Cathete ngoài màng cứng có thể tiến hành cho gần như tất cả các bệnh nhân được phẫu thuật cột sống ở các vị trí khác nhau trừ cột sống cổ. Điều này mang lại giá trị nhân văn to lớn khi phần nhiều các bệnh nhân này được kiểm soát đau tốt sau mổ khi mà các biện pháp giảm đau thông thường khác không hiệu quả.
Trên cơ sở sự phối hợp tốt giữa phẫu thuật viên và bác sỹ gây mê hồi sức, việc hạn chế được tối đa các biến chứng liên quan đến tư thế mổ cùng với hoàn toàn kiểm soát được đau sau mổ chúng tôi tin tưởng rằng gây tê vùng cho phẫu thuật cột sống thắt lưng là một giải pháp tốt và có thể được tiến hành một cách rộng rãi hơn tại các cơ sở y tế có đủ điều kiện.

ThS.BS Phạm Quang Minh.

U tuỷ sống: Phân loại và biểu hiện lâm sàng

1.PHÂN LOẠI U TUỶ

1.1. Theo định khu:
Đây là phân loại thường áp dụng trong lâm sàng, giúp cho chẩn đoán và điều trị  phẫu thuật.
+ U vùng cột sống cổ chiếm tỷ lệ thấp (< 25%), hay gặp u nội tủy.
+ U vùng cột sống ngực chiếm tỷ 1ệ cao nhất (> 65%).
+ U vùng cột sống thắt lưng-cùng chiếm khoảng 15 - 25%, hay gặp là u rễ thần kinh.
1.2. Theo tổ chức học:
Đây là phân loại có tính khoa học, thường được tiến hành sau phẫu thuật, phục vụ cho công tác nghiên cứu, điều trị và tiên lượng bệnh.
+ Theo kinh điển, các tác giả chia 2 nhóm:
- U nguyên phát (u màng ống nội tủy, u nguyên bào thần kinh đệm, u nguyên bào tủy, u mạch máu...).
- U di căn do ung thư từ cơ quan khác đến tủy.
+ Ngày nay các tác giả đều thống nhất phân loại dựa trên nguồn gốc tổ chức học u:
- Meningioma (u màng tủy - chiếm tỷ 1ệ khoảng 15 - 25%).
- Neurinoma (u rễ thần kinh - bao gồm cả Schwannoma và neurofibroma chiếm tỷ lệ cao nhất từ 30 - 50%).
Còn lại các u sau đây chiếm tỷ 1ệ thấp:

- Ependymoma (u màng ống nội tủy).
- Astrocytoma (u tế bào hình sao).
- Dermoid cyst (u nang bì).
- Lipoma (u mỡ).
- Lymphoma (u hạch bạch huyết).
- Haemangioma (u máu).
- U sụn.
- U di căn.
- U hỗn hợp khác.
1.3.  Theo giải phẫu:
+ U nội tủy (intramedulle tumor): hiếm gặp (khoảng 5 - 10%), thường là u màng ống nội tủy (ependymoma), u nang, u nguyên bào xốp, hoặc u mỡ (lipoma).
+ U ngoài tủy (extramedulle tumor) hay gặp, người ta chia như sau:
U ngoài tủy- dưới màng cứng (intradural- extramedulle tumor): là những u hay gặp (khoảng 65 - 75%), thường là u màng tủy (meningioma) và u rễ thần kinh (neurinoma).... Đây là những u lành tính, ranh giới rõ, mật độ chắc, phẫu thuật có thể lấy được toàn bộ u, ít gây tổn thương tủy-rễ thần kinh. Có tác giả nghiên cứu thấy: u phát triển từ dây chằng răng dính vào màng tủy, hay gặp u loại này ở đoạn tủy D4-D8, hiếm thấy ở đoạn tủy D12 trở xuống do dây chằng răng không còn bám tới đoạn này.
- U ngoài tủy - ngoài màng cứng (extradural-extramedulle tumor): thường là những u di căn, u máu hoặc u xương... chiếm tỷ lệ thấp khoảng l5 - 25%.
- U hỗn hợp: là loại u phát triển cả trong và ngoài màng cứng, u có dạng hình “đồng hồ cát” hoặc u có dạng hai túi... U dạng đồng hồ cát là thể u đặc biệt một phần u nằm trong ống sống, một phần u chui qua lỗ ghép ra ngoài ống sống. Nếu ở đoạn ngực thì u có thể nằm trong trung thất, nếu ở đoạn thắt lưng thì u có thể nằm trong ổ bụng hoặc chậu khung; u loại này có thể to bằng quả chanh, quả cam hoặc thậm chí to hơn. Phẫu thuật lấy triệt để loại u này rất khó khăn. Để phát hiện loại u này chỉ có chụp cộng hưởng từ 1à mang lại kết quả tốt nhất. Trước đây hay bỏ sót khi mổ u loại này.

2. ĐẶĐIM LÂM SÀNG MT S LOI U THƯỜNG GP

U bao dây thần kinh (schwannoma và neurofibroma):
Các u bao dây thần kinh là các loại u tủy sống thường gặp nhất. Chúng chiếm 16 đến 30% trong tất cả các u tủy sống trong các báo cáo. Khoảng 72% là trong màng cứng ngoài tủy, 14% ngoài màng cứng, 13% là loại quả tạ (dumbbell) và 1% là nội tủy. Chúng có nhiều nhất ở tủy sống ngực, thứ nhì là ở cổ và ít nhất là ở vùng thắt lưng. Không có khác biệt về phái và thường gặp ở độ tuổi bốn mươi hoặc năm mươi. Chúng thường gây ra các triệu chứng rễ sớm và các dấu hiệu của đường dẫn truyền dài xuất hiện muộn hơn.
U bao dây thần kinh trong ống sống thường gây ra các thay đổi về hình ảnh Xquang. Các dữ kiện chẩn đoán trên phim Xquang thường là giãn rộng khoảng cách giữa các chân cung có trong khoảng một nửa số trường hợp và mở rộng lỗ liên hợp. Ít khi có hóa vôi. Nếu u bao dây thần kinh phát triển thành hình quả tạ, chúng có thể tạo ra một khối u mềm điển hình, dễ xác định ở vùng cạnh cột sống. Sự mở rộng lỗ liên hợp có thể là dấu hiệu của sự loạn sản trong bệnh Von Recklinghausen của xương mà không có sự hiện diện của u sợi thần kinh. Trên tủy đồ, u bao dây thần kinh được thấy do sự di lệch của tủy và hình ảnh khuyết hình mũ của cột thuốc cản quang.
Điều trị u bao dây thần kinh bằng cách mổ lấy toàn bộ u. Kết quả tốt nhất ở những bệnh nhân có khiếm khuyết thần kinh trước mổ ít nhất, nhưng cũng có một số trường hợp đã được báo cáo là có hội chứng cắt ngang tủy hoàn toàn mà vẫn hồi phục. Tỉ lệ tử vong sau mổ được báo cáo là từ 0 đến 7%. Xạ trị không được chỉ định cho loại u lành tính này.
U màng não tủy (menigioma):
U màng não tủy là loại thường gặp thứ hai trong các loại u tủy sống, chiếm khoảng 22% trong tất cả các u tủy sống. Khoảng 80% các u này gặp ở phụ nữ ở độ tuổi bốn mươi, năm mươi và sáu mươi. Nó có thể có ở bất cứ đoạn nào trong ống sống nhưng khoảng 2/3 các u này nằm ở vùng ngực. U thường dính vào chỗ xâm nhập của dây chằng răng và từ đó phát triển ra sau và ra trước.
Các u màng não tủy ở tủy rất hiếm khi hóa ác. Các u màng não tủy dạng melanotic cũng hiếm gặp ở tủy và báo cáo gần đây của Scott và cộng sự khẳng định rằng chúng không hoạt động giống như các u ác tính và rằng thời gian sống rất lâu sau điều trị cũng đã được báo cáo. Đa số các u màng não tủy là trong màng cứng ngoài tủy, 15% là ngoài màng cứng. Ngoài ra cũng đã có báo cáo gặp được u màng não tủy ở trong tủy sống. Các u màng não tủy đa u rất hiếm gặp nhưng có thể gặp trong bệnh cảnh Von Recklinghausen hoặc đôi khi xuất hiện riêng lẻ. U màng não tủy thường có triệu chứng đầu tiên là các rối loạn của các đường dẫn truyền vận động dài.
Trên phim Xquang thường ít khi thấy được hình ảnh vôi hóa hoặc bào mòn chân cung. Phản ứng xương có trong khoảng 30% các trường hợp nhưng rất khó thấy được khi không có hình chụp cắt lớp. Hình ảnh tủy đồ giống như ở u bao dây thần kinh. Hình ảnh ngấm máu có thể thấy được trên động mạch tủy đồ.
Điều trị u màng não tủy bằng cách mổ lấy u. Kết quả kém mĩ mãn hơn so với u bao dây thần kinh nhưng vẫn rất tốt. Tỉ lệ tử vong sau mổ dao động trong khoảng 0,9 đến 12%. Xạ trị và hóa trị không được chỉ định cho u màng não tủy lành tính.
U tế bào màng lót ống nội tủy (ependymoma):
U tế bào màng lót ống nội tủy chiếm khoảng 13% trong các loại u tủy sống với u tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa là loại rất thường gặp. Trong 169 trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy được Slooff và cộng sự phân tích, 99 trường hợp (56,5%) xuất hiện tại mức của chùm đuôi ngựa và 70 trường hợp (43,5%) là nội tủy hoàn toàn. U tế bào màng lót ống nội tủy của tủy gặp nhiều ở nam giới và thường có triệu chứng ở khoảng giữa của lứa tuổi ba mươi. Hai triệu chứng thường gặp nhất là đau và yếu chi. Chi dưới bị nhiều hơn chi trên rất nhiều và đau có thể khu trú ở đốt sống hoặc lan theo rễ. Các rối loạn cơ vòng cũng thường gặp trong các trường hợp u ở chùm đuôi ngựa. Hội chứng Fincher gồm xuất huyết khoang dưới nhện đột ngột cùng với đau thần kinh tọa cấp tính là một thí dụ hiếm gặp của các triệu chứng trong các trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa biểu hiện đột ngột và có thể xảy ra do tình trạng thai nghén hoặc chấn thương.
U tế bào màng lót ống nội tủy cho hình ảnh thay đổi về xương trong 15% các bệnh nhân của Slooff và cộng sự và trong 36% của nhóm u nội tủy được báo cáo bởi Guidetti và Fortuna. Sự gia tăng khoảng cách giữa các chân cung là dấu hiệu có giá trị nhất, sau đó là dấu hiệu bào mòn thân đốt sống dạng vỏ sò. U tế bào màng lót ống nội tủy rất hiếm khi hóa vôi, tủy đồ cho thấy hình ảnh giãn rộng lan tỏa của bóng tủy kéo dài trên nhiều mức đốt sống. Sự phối hợp khí và cản quang cho thấy các thương tổn tủy như hydromyelia. U tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa biểu hiện giống như một khối có nhiều ngăn.
Lấy toàn bộ u là phương pháp được chọn cho việc điều trị u tế bào màng lót ống nội tủy. Guidetti và Fortuna báo cáo 20 trường hợp trong đó có 16 trường hợp được lấy toàn bộ u, 3 trường hợp một phần u và 1 trường hợp mổ tủy sinh thiết. Một vài trường hợp, đặc biệt là những trường hợp u khổng lồ, dính vào màng cứng, bào mòn xương và xâm nhập vào mô mềm, là những trường hợp không thể lấy hết được. Với việc sử dụng kính hiển vi phẫu thuật và dao đốt lưỡng cực vi phẫu, đa số các trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy có thể lấy được một cách an toàn. Horrax & Henderson vào năm 1939 và Fischer & Tommasi năm 1976 đã báo cáo các trường hợp lấy hết u u tế bào màng lót ống nội tủy phát triển từ hành tủy đến chóp tủy mà vẫn có kết quả tốt. Tỉ lệ tử vong sau mổ gần đây dao động từ 0 đến 10.9%.
Đa số các tác giả đều không chọn phương pháp chiếu xạ cho các u đã được lấy hết. Xạ trị và hóa trị cho đến nay không được xem là phương pháp điều trị cho các u này.
U tế bào sao (astrocytoma):
U tế bào sao ở tủy ít gặp hơn so với u tế bào màng lót ống nội tủy. Slooff và cộng sự báo cáo 86 trường hợp u tế bào sao trong số 291 trường hợp u xuất phát từ mô thần kinh đệm của tủy (29,5%). Các u tế bào sao biệt hóa cao gặp nhiều ở nam giới hơn trong khi các u tế bào sao ác tính và u nguyên bào thần kinh đệm (glioblastoma) lại gặp đều nhau ở hai phái. Các nang nhỏ (microcyst) và nang lớn (syrinxe) thường hiện diện trong u. Các triệu chứng của u tế bào sao, thường là các triệu chứng của các đường dẫn truyền dài, thường là liệt một bên hoặc hai bên cùng với phân li cảm giác và rối loạn cơ vòng ở các u vùng lưng-thắt lưng.
Triệu chứng Xquang thường gặp nhất là giãn rộng khoảng cách giữa các chân cung ở nhiều mức đốt sống, đây là nét đặc trưng cho tất cả các u nội tủy. Các biểu hiện trên tủy đồ cũng giống như các trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy nội tủy.
Phương pháp điều trị cổ điển các u tế bào sao của tủy là giải ép, hút nang và xạ trị. Phương pháp điều trị này được sử dụng trước đây vì người ta tin rằng u này không thể lấy hết được. Hiện nay, phương pháp điều trị được cho là hữu hiệu nhất cho loại u này là lấy toàn bộ u. Xạ trị được coi là một mối nguy cơ cao cho tủy vì gây ra sự hủy hoại tủy nên các tác giả ngày càng khuyến cáo không nên chiếu xạ cho các loại u này. Một số tác giả vẫn ủng hộ các biện pháp điều trị hóa trị toàn thân cho các trường hợp có độ ác tính cao và các trường hợp còn một số lượng u sót lại sau mổ.
Các u di căn (metastasis tumors):
U nguyên phát là loại thường gặp nhất ở những bệnh nhân dưới 50 tuổi trong khi các carcinoma di căn lại thường có ở những bệnh nhân trên 50 tuổi. U di căn tủy sống thường xảy ra ở nhóm từ 50 đến 70 tuổi và thường gặp ở đàn ông nhiều hơn đàn bà. Tỉ lệ các u di căn tủy sống có triệu chứng rất khó xác định. Torma báo cáo 250 trường hợp u di căn ngoài màng cứng tủy sống và cột sống. Ông khẳng định rằng u di căn ngoài màng cứng chiếm khoảng 20 đến 30% các u tủy sống và cột sống. Trong số 250 trường hợp đó có 170 trường hợp (68%) là u di căn, 40 trường hợp (16%) là lymphoma lan tỏa hoặc myeloma, 24 trường hợp (9,6%) có nguyên phát là sarcoma xương hoặc u dây sống (chordoma) và 16 trường hợp (6,4%) có nguyên phát không từ xương. Theo ghi nhận qua thực tế của tác giả, hơn một nửa của tất cả các u tủy sống là u di căn.
U di căn đến cột sống nhiều nhất là từ phổi, vú, tuyến tiền liệt, thận, sarcoma và lymphoma (bảng 3). Chúng xảy ra nhiếu nhất là ở vùng ngực. Trong 127 u tủy di căn được Chade báo cáo, 59 trường hợp nằm ở khoang ngoài màng cứng, 24 trường hợp ở thân đốt sống, 44 trường hợp ở khoang ngoài màng cứng và thân đốt sống, 5 trường hợp trong màng cứng ngoài tủy và 2 trường hợp nội tủy. Hình ảnh lâm sàng thường là có một giai đoạn ngắn đau theo rễ và đau khu trú ở lưng, sau đó là sự tiến triển đột ngột các dấu hiệu của đường dẫn truyền dài.
Hình ảnh Xquang thường có cả hai loại thay đổi gồm hủy và sinh xương, có hoặc không có chèn ép do các gãy bệnh lí gây ra. Nếu u nguyên phát của bệnh nhân được biết đến từ trước mà bệnh nhân không có yếu vận động, điều trị bằng cách dùng dexamethasone và xạ trị. Nếu có dấu hiệu về vận động thì mổ cắt bản sống sau khi xạ trị là phương pháp điều trị được chọn. Mổ cắt bản sống thường không có giá trị khi bệnh nhân bị liệt hoàn toàn, đặc biệt là khi bệnh diễn tiến trong một khoảng thời gian rất ngắn. Giải ép cũng có thể bị chống chỉ định cho những bệnh nhân đang trong tình trạng xấu như di căn nhiều nơi, đặc biệt là trường hợp di căn từ gan. Hiệu quả của điều trị các ung thư di căn ngoài màng cứng tùy theo từng loại u riêng biệt, xấu nhất là các u có nguyên phát là các ung thư phổi và melanoma và tốt nhất là các lymphoma. Kết quả tương đối tốt ở các nhóm di căn đến từ các ung thư vú, thận và tuyến giáp trạng.
U mỡ (lipoma)
Ehni và Love khẳng định rằng u mỡ ống sống chiếm 1% các u tủy nguyên phát, hai phần năm ngoài màng cứng và ba phần năm trong màng cứng. Thống kê này được xác định thêm bởi nhiều báo cáo trong thời gian gần đây. Tần suất tính theo phái thì bằng nhau.
Ở các u mỡ ống sống trong màng cứng, các triệu chứng bắt đầu có trong 30 năm đầu của cuộc đời mà thường nhất lại hay xảy ra xung quanh tuổi dậy thì. Thai kỳ và sự tăng trọng lượng cơ thể quá mức cũng tạo điều kiện cho các triệu chứng xuất hiện. Vùng gặp nhiều nhất là vùng ngực, sau đó là vùng cổ. u thường trải dài trên bốn hoặc năm đốt sống, thường nằm tại màng nuôi và gây ra khuyết xương phía sau cột sống, sát tủy (juxtamedullary) và dưới màng nuôi (subpial). Thỉnh thoảng chúng có nhiều u hoặc phối hợp với các loại u khác như u nang bì (dermoid) hay u quái (teratoma). Chúng thường phối hợp với các bất thường về xương của cột sống, đặc biệt là tật gai sống hở đôi (spina bifida occulta) và u mỡ dưới da ở cùng mức. Điều trị bằng cách mổ giải ép, bóc tách màng nuôi và lấy một phần u. một vài trường hợp cho phép lấy hết u nhưng vì những sợi dính giữa u và tủy nên thường chỉ có rất ít hoặc không có ranh giới để cắt và nếu cố gắng lấy u có thể gây chấn thương cho tủy. sau mổ, trọng lượng mỡ toàn thân của bệnh nhân cần được giảm xuống và cố gắng đạt được trọng lượng lí tưởng. Mặc dù chỉ lấy một phần u, thường bệnh nhân sau đó sống với thời gian dài không có triệu chứng, thời gian dài nhất đã được báo cáo là 33 năm.
U mỡ ngoài màng cứng thường gặp nhiều nhất ở vùng ngực giữa và ngực thấp. Thời điểm xuất hiện triệu chứng nhiều nhất là ở tuổi 40 và thời gian của các triệu chứng thường ngắn. Các u này dính rất chặt vào màng cứng và có thể lấy hết được nhưng chúng có thể là angiolipoma hoặc fibrolipoma. Các u này không có biểu hiện đặc biệt nào trên Xquang.
U nguyên bào mạch máu (hemangioblastoma):
U nguyên bào mạch máu chiếm khoảng 1% trong các u tủy sống. Không có tính chất trội theo phái. Các triệu chứng thường bắt đầu ở lứa tuổi ba mươi. Chúng thường chỉ có một u đơn độc và tập trung nhiều nhất ở vùng tủy cổ-ngực. 60% là nội tủy. Rỗng tủy (syringomyelia) phối hợp có trong hai phần ba và bệnh Lidau hiện diện trong một phần ba số trường hợp. Trên tủy đồ, các tĩnh mạch màng tủy bị giãn thấy được trong 48% các trường hợp và động mạch tủy đồ là phương pháp chẩn đoán được chỉ định cho loại thương tổn này. Điều trị bằng cách lấy hết u. việc lấy hết u mà không làm thương tổn thần kinh thêm là có khả năng nếu sử dụng kính hiển vi và kĩ thuật mổ vi phẫu. Một điều quan trọng là không xẻ vào u này mà chỉ bóc tách xung quanh.
U da bì, u nang bì và u quái (dermoid, epidermoid và teratoma):
Các loại u này chiếm 1 đến 2% trong tất cả các u tủy và có nguồn gốc bẩm sinh. Chúng xuất hiện nhiều ở vùng thắt lưng-cùng, gây triệu chứng của chóp tủy và chùm đuôi ngựa. Tuy nhiên, có thể gặp chúng ở mọi vị trí trong ống sống. Chúng thường phối hợp với các khiếm khuyết bẩm sinh khác, tật gai sống hở đôi và ống nang bì (dermal sinus tract) là các thương tổn thường gặp nhất, chứng rậm lông (hypertricosis – có một vùng da mọc lông nhiều), mảng hắc tố da (skin pigmentation) và u mạch da (cutaneous angioma) cũng đã được gặp.
Điều trị các u này bằng cách mổ lấy u, phương pháp điều trị lí tưởng là lấy toàn bộ u. bởi vì chúng thường dính rất chắc vào chùm đuôi ngựa hoặc chóp tủy, việc lấy hết u mà không gây thêm tổn thương cho tủy đôi khi không thể thực hiện được. Một điều cực kì quan trọng là việc không để cho dịch u tràn vào khoang dưới nhện vì như vậy sẽ có khả năng gây ra viêm màng nhện hóa học (chemical arachnoiditis). Nếu vỏ nang mỏng, dịch nang nên được hút ra bằng ống tiêm qua một kim nhỏ trước khi tiến hành lấy u hơn là phá nang làm tăng nguy cơ chảy tràn ra của dịch nang. Mặc dù chỉ lấy một phần u, các khiếm khuyết thần kinh sẽ cải thiện trong nhiều năm sau đó. Nếu các triệu chứng lại tiến triển, nên chỉ định mổ lại. Các u quái (teratoma), đặc biệt là các u ở vùng cùng-cụt, có nguy cơ hóa ác, vì vậy, thường phải điều trị các u quái bằng phẫu thuật kèm với xạ trị và hóa trị.
U dây sống (chordoma)
U dây sống đã được nói đến như một loại u chiếm khoảng 1% trong các u tủy sống. chúng thường có ở vùng cùng-cụt nhất (khoảng một nửa số trường hợp). Vị trí thường gặp thứ hai là vùng cổ, đặc biệt là gần đốt đội và đốt trục. Khoảng một phần ba xảy ra ở nền sọ và số còn lại ở các vùng khác nhau trong ống sống.
Các u này thường gây đau lưng khu trú. Đau lan tỏa theo rễ và chèn ép tủy xảy ra muộn và tiến triển chậm. U này gặp ở nam nhiều gấp hai lần ở nữ. Xquang thường cho thấy hình ảnh phá hủy xương đồng thời với sự tồn tại của vỏ xương và hình thành xương mới.
U dây sống là loại u phát triển chậm, xâm lấn và tiến triển thành ác tính và phương pháp điều trị được chọn là lấy toàn bộ u. việc này thường không đạt được vì kích thước quá lớn của u khi được chẩn đoán và tính phức tạp trong việc lấy toàn bộ.
Không có tài liệu nào về trị liệu sau phẫu thuật u dây sống được báo cáo. Nhiều bệnh nhân sống qua năm năm mà vẫn bị tái phát u. Như vậy các u dây sống đã được phẫu thuật chỉ nên coi như là giai đoạn không phát triển chứ không phải đã được chữa trị.
Đường mổ qua miệng hoặc phía trước cổ cho con đường tốt nhất để tiếp cận với các u ở mức C1 và C2. Việc lấy toàn bộ xương bị thương tổn phối hợp với ghép xương phía trước hoặc phía sau là phương pháp điều trị được chọn. Thông thường xạ trị vẫn được chỉ định.
Con đường tiếp cận các u vùng cùng-cụt tốt nhất là phối hợp giữa đường mổ thần kinh phía sau và đường qua trực tràng (colorectal). Việc lấy hết u là lí tưởng. Nếu việc lấy hết u có thể tiến hành được, việc lấy nguyên khối là cần thiết vì bờ của mô bình thường dễ nhận biết. Việc lấy nguyên khối u dây sống đòi hỏi phải cắt bỏ toàn bộ một hoặc hai thân đốt sống và đưa vào các mảnh ghép dài chống giữa các đốt sống. tuy nhiên việc ghép xương không cần thiết phải thực hiện ở vùng cùng-cụt. Mặc dù u dây sống hiếm khi di căn nhưng đã có trường hợp di căn xuống dưới (distal) được phát hiện, đặc biệt là sau khi can thiệp phẫu thuật.

NỘI TRÚ - CAO HỌC - CKI,CKII,TS

1. Thông tin tuyển sinh
2. Kinh nghiệm ôn thi
3. Đề cương ôn thi
4. Ngân hàng đề thi
5. Tài liệu chuyên đề ôn thi
- Giải phẩu, Sinh lý học, Hóa sinh, Di truyền học
- Chuyên khoa lẻ

MEDICAL ENGLISH

1. Học qua Video Youtube
2. Loạt sách Medical English
3. Phương pháp Effortless English
4. Phương pháp học tiếng anh Pimsleur
5. Phương pháp học Phạm Quốc Hưng
6. Phương pháp Crazy English
7. Kho sách học English
8. Kinh nghiệm học English

SERIES BOOK - VIDEO MEDICAL

1. Series : Harrison, Oxford, Washington, Netter
2. Attlas medicine :
3. Video học online: ECG , EGG

PHẦN MỀM HỖ TRỢ

1. Phần mềm tiện ích đọc ebook
2. Phần mềm tiện ích đọc file
3. Phần mềm y học

Kỹ năng mềm

1. Loạt bài về TonyBuzan
2. Sơ đồ tư duy
3. Phương pháp học
4. Thiền định
5. Hạt giống tâm hồn